Ý Nghĩa Tượng Phật Quan Âm Trong Cuộc Sống

 Ý Nghĩa Tượng Phật Quan Âm Trong Cuộc Sống🙏

https://tuongdabaophuoc.vn/danh-muc-san-pham/tuong-quan-am/13

Theo kinh điển phật giáo thì có rất nhiều các vị Bồ Tát, nhưng có lẽ Phật Quan Âm là vị Bồ Tát được biết đến nhiều nhất. Quán Thế Âm Bồ Tát là một hình tượng gần gũi với tất cả các tín đồ Phật Giáo. Ngài là biểu tượng của lòng đại bi và cũng là chỗ nương cậy mong cầu cứu khổ của tất cả chúng sinh. Vì thế mà chúng sinh đang khổ đau thường quay hướng về Ngài để được chở che, dẫn dắt.


Tượng Quan âm ngồi đài sen – Click ảnh để xem thông tin chi tiết

Người đời coi lòng từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát như tình mẹ thương con vô bến, vô bờ, cho nên kính ngưỡng Ngài thông qua hình tượng một người phụ nữ và thường gọi Ngài là: ” Phật Bà Quan Âm“.

Nội Dung Bài Viết

Truyền Thuyết Về Phật Quan Âm Bắt Nguồn Từ Đâu?

Phật Bà Quan Âm xuất hiện dưới nhiều hình dáng để cứu độ chúng sanh, đặc biệt là trong những nạn lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. Phụ nữ không có con cũng thường cầu Phật Bà Quan Âm.

Quan Âm cũng thường được nói đến bên cạnh Phật A-di-đà và trong kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm hai mươi lăm với tên Phổ môn, những công hạnh của Bồ Tát trình bày cụ thể và tán thán. Tại TQ và Việt Nam, Quan Âm thường được diễn tả dưới dạng nữ nhân.

Trong lịch sử, văn học bác học (ví dụ tác phẩm Tây Du Ký của Trung Hoa), văn học nhân gian, hay trong kinh sách nhà  Phật Thì Phật Bà Quan Âm được xem là vị Bồ Tát có sức mạnh nhất, chỉ sau Phật Tổ.

Truyền Thuyết Về Phật Quan Âm Bắt Nguồn Từ Đâu?

Vấn đề này có thể là do Quan Âm là vị Bồ Tát phổ độ chúng sinh và là Bồ Tát tượng trưng cho tinh thần của Phật giáo Đại thừa- giác tha, ý là giúp đỡ và giác ngộ người khác – vì thế có thể Phật giáo Đại thừa đã đưa người lên tầm quan trọng như vậy, không giống với Phật giáo Tiểu thừa.

Điều này càng làm tăng lòng sùng kính của người theo đạo Phật đối với Quán Âm. Ở từng ngôi chùa, thường thì ở giữa là tượng đức Phật Tổ, tượng Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát nằm 2 bên, nhưng phía ngoài khuôn viên chùa đa phần đều có tượng đức Phật Tổ hay Quán Thế Âm mà không thấy hay ít thấy hơn tượng của những vị Phật hay Bồ Tát khác.

Danh xưng Phật Bà Quan Âm có nguồn gốc từ truyền thuyết của Phật giáo, tin rằng những ai tu hành đạt đến đỉnh cao, thì ngũ giác của họ có thể sử dụng chung được. Tức là họ có thể sử dụng tai để “nhìn” thấy hình ảnh, sử dụng mắt để “nghe” được tiếng động, lưỡi có thể ngửi được,….

Theo lòng tin này, thì danh xưng Phật Quan Âm có nghĩa là: vị Bồ Tát luôn thấy được những khổ đau, cơ cực trong bến mê của con người và sẵn sàng đứng lên giúp đỡ hay nói pháp lúc cần.https://tuongdabaophuoc.vn/

Công Chúa Diệu Thiện Và Quan Thế Âm Bồ Tát?

Công chúa Diệu Thiện và Quán Thế Âm Bồ Tát có mối quan hệ như thế nào? Có người nói rằng công chúa Diệu Thiện là do Quán Thế Âm Bồ Tát chuyển sinh, lại có người nói công chúa Diệu Thiện trải qua quá trình tu luyện gian nan, cuối cùng đắc chính quả trở thành Quán Thế Âm Bồ Tát.

Truyền thuyết Quan Âm Diệu Thiện được truyền miệng trong dân gian Việt Nam qua lối truyện thơ. Bài thơ viết theo thể lục bát nói về một vị công chúa đã xuất gia ở Việt Nam để độ hoá cho vua cha có nhiều tội ác. Sự tích này cũng có một dị bản lưu hành ở Trung Hoa.

Công Chúa Diệu Thiện Và Quan Thế Âm Bồ Tát?
Công Chúa Diệu Thiện Và Quan Thế Âm Bồ Tát?

Vị công chúa này, nguyên ở nước Hùng Lâm thuộc Ấn Độ, là người con gái thứ ba của một vị vua. Trước khi sinh công chúa Diệu Thiện thì nhà vua rất mong có hoàng tử nên đã cầu xin rất nhiều nhưng đứa con chào đời lại là một công chúa. Điều này đã làm cho nhà vua sinh lòng oán hận.

Khác hẳn hai người chị, nàng công chúa này lớn lên chỉ say mê kinh kệ và có lòng quy y Phật. Vì cự tuyệt việc lấy chồng nên cô bị giam hãm phía sau hoàng cung. Không thuyết phục được con mình hoàn tục, vua giả vờ cho phép con tu ở chùa Bạch Tước rồi ngầm ra lệnh cho các sư sãi phải tìm cách thuyết phục cho công chúa hoàn tục. Nếu không sẽ giết hết các sư sãi trong chùa. Nhưng mọi cách đều không lung lạc được ý quyết của công chúa.

Giận con, vua ra lệnh đốt chùa để giết cô công chúa nhưng trời bỗng có mưa dập tắt lửa. Chưa hết giận, vua bèn hạ lệnh xử chém, thì trời bỗng giông tố, tạo ra sét đánh văng búa của đao phủ thủ. Vua tức giận ra lệnh xử giảo công chúa nhưng ngay lúc đó xuất hiện một con cọp trắng xông ra cõng công chúa mang đến chùa Hương.

Diệu Thiện tu hành ở đó và cảm hoá được muông thú.

Trong khi đó, vua trong triều đột nhiên bị chứng bệnh hủi không chữa được, dần dần hai bàn tay bị rơi rụng và mắt trở nên mù. Công chúa tu đã đến kì đắc đạo trở về thăm cha và đã hy sinh hai mắt cùng hai tay để cho cha. Sau đó công chúa nhập Niết Bàn và cứu độ cha mẹ và hai chị cùng thành Phật.

Trong truyện đã đề cao hai đặc tính của bồ tát, đó là nhân và hiếu. Với trí huệ và giới hạnh thì hiếu có thể độ giúp cứu thoát được cha mẹ mình, cùng như nhân có thể độ giúp nhiều người thoát vòng mê lầm trở về với trí huệ.

Video truyền thuyết phật quan âm và công chúa diệu thiện

Xem thêm: https://tuongdabaophuoc.vn/

Ý Nghĩa Tượng Phật Quan Âm trong văn hóa dân gian

Theo quan điểm phong thủy thì hình ảnh Quan Thế Âm Bồ Tát  người có tâm địa lương thiện, yêu thương tất cả nhân loại, không chấp nhận mọi người đối xử với mình ra sao, không để tâm, không oán thù, luôn vị tha, bao dung cho tất cả tội lỗi, luôn lắng nghe, chia sẻ nỗi khổ đau cho nhân loại. Vì vậy, Tượng Phật Quan Âm luôn là biểu tượng của sự bình an, lòng thánh thiên, bác ái, hướng phật, đem tới sự may mắn cho gia chủ.

Ý Nghĩa Phật Quan Âm Và Hoa Sen

Phật Quan Âm được thể hiện dưới nhiều hình dáng không giống nhau, tuy nhiên rộng rãi nhất có lẽ là Phật Quan âm đứng hoặc ngồi trên đài sen, tay trái cầm bình cam lộ, tay phải cầm cành dương liễu.

Trước khi trở thành Phật, người sống trong nhung lụa, có thể nói là nhiễm bụi bẩn của cuộc đời cũng như mầm sen còn ở trong bùn đất tăm tối. Đến khi Ngài xuất gia tu thành chính quả nghĩa là hoa sen đã vươn mình nở rộ khỏi bùn đất.


Tượng Quan âm đứng trên đài sen – Click ảnh để xem thông tin chi tiết

Hoa sen còn tượng trưng cho sự bình đẳng, qua ý nghĩa hoa sen trong Phật giáo cũng gửi gắm một thông điệp: bất cứ ai cũng có thể thức tỉnh, tu hành để thoát khỏi ngũ dục của cuộc đời nếu có ý chí, sự quyết tâm.
Sống trong bùn đất nhuốc nhơ nhưng vẫn tỏa hương thơm ngát cho đời, hiếm có một loại hoa nào được như vậy. Đó cũng chính là những điều tượng trưng cho giáo lý Đức Phật muốn truyền đạt cho con người.

Nước cam lộ của quan âm là nguồn nước xoa dịu nỗi đau của chúng sinh. Cành dương liễu biểu hiện cho sự dẻo dai, nhẫn nhục mà đức Phật vẫn luôn truyền.

Ý Nghĩa Tượng Phật Quan Âm Và Đồng Tử

Có lúc Quan Âm ẵm trên tay 1 trẻ nhỏ, có lúc 1 đồng tử theo hầu. Người ta cũng thường vẽ hoặc tạc tượng Quan Âm ở trong mây, hay cưỡi rồng trên thác nước.

Thiện Tài đồng tử là một cậu bé mồ côi phát nguyện tu hành quy y Phật pháp nhưng chưa chứng quả. Nghe tin ở Phổ Đà Sơn có Bồ Tát nên quyết chí vượt qua mấy muôn dặm đến đây để hầu ngài và xin làm đệ tử.

Trước khi ưng chuẩn lời nguyện ấy, Đức Bồ Tát muốn thử tâm chí coi ra sao, bèn truyền cho sơn thần, thổ địa hóa làm ăn cướp đến vây đánh Phổ Đà Sơn. Riêng về phần Ngài thì Ngài giả dạng sợ sệt, kêu la cầu cứu và giả té xuống hố sâu. Thấy vậy Thiện Tài đồng tử chạy theo cứu thầy và nhảy luôn xuống hố. Từ đó Thiện Tài được Quan Âm nhận làm đệ tử hầu cận ngài


Tượng Đồng tử bái Quan âm – Click ảnh để xem thông tin chi tiết

Đồng tử bái Quan Âm mang ý nghĩa con người cầu thầy học đạo cung kính, trang nghiêm. Đăt tượng ở nơi trang trọng mà thành kính như đồng tử kia thì ắt tâm hồn được an ổn trước nhất.

Tượng Phật Quan Âm Như Thế Nào Là Tốt?

Theo sử sách phong thủy và lời nhân gian cho rằng hình tượng quan âm bồ tát là biểu tượng của điềm lành, lòng từ bi bác ái, hướng thiện, hướng Phật, hoá hung khí, đem lại bình an, giải trừ tai ách cho gia chủ.

Tượng Phật Quan Âm Như Thế Nào Là Tốt?

Vì vậy khi thể hiện hình ảnh Phật Bà Quan Âm trong phong thủy, quan trọng nhất đó chính là khuôn mặt, hình tượng quan âm tự tại, phải thể hiện được nét mặt từ bi, hiền hậu, khi nhìn vào có cảm giác dễ chịu, an lành. Để khi nhìn thấy đức Phật Quan Âm, nở nụ cười hiền hậu nhân từ, lòng ta sẽ trở nên thanh tịnh, nhẹ nhàng.

Xem thêm: https://tuongdabaophuoc.vn/

Cách Bày Trí Và Thờ Tượng Phật Quan Âm

Tại sao nên thờ Tượng Phật bà Quan âm

Để giúp nhiều gia chủ nhanh chóng hiểu rõ được lý do tại sao nên thờ Phật bà tại gia, chúng tôi xin đưa ra một số lý do sau:

Tại sao nên thờ Tượng Phật bà Quan âm
  • Phật bà quan âm phổ độ chúng sanh, mang đến yên vui cho gia đạo.
  • Phật bà quan âm cứu vớt người gặp nạn, mang sự may mắn đến cho gia đạo trong mọi việc của cuộc sống như: sức khỏe, con cái, công việc…
  • Phật bà khiến tâm tính chúng sanh trở nên thanh tịnh, từ bi, hướng đến điều thiện.

Vì vậy mọi người thờ Phật quan âm Bồ Tát chính là mong muốn có được sự lương thiện, từ bi, an nhiên, tự tại. Không những thế, việc thờ Phật bà Quan Âm còn mang ý nghĩa cầu mong sự may mắn, sức khỏe, mong Phật bà phù hộ cho gia đình, con cái luôn được bình an, hạnh phúc, ấm no.

TƯỢNG ĐÁ BẢO PHƯỚC

wepsite: https://tuongdabaophuoc.vn/

Liên hệ: 0705 072 532

Địa chỉ: nga 3 mai đăng chơn vs quãng nam

TƯỢNG PHẬT QUAN ÂM BẰNG ĐÁ

Hình tượng Quan Âm Bồ Tát

Ngài có đức uy thần công đức và lòng từ bi rất lớn. Ngài vốn không phải là nữ tướng, nhưng vì ngài thường cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh (mà phụ nữ thường nhiều khổ nạn hơn so với nam giới) cho nên giới phụ nữ đặc biệt tín ngưỡng về Ngài.

Nên chúng sanh mới tưởng tượng ra Ngài là nữ tướng để tiện hoá độ cho phụ nữ. Theo Kinh A-Di-Đà nói: Người sanh về cõi cực lạc tuy chưa chứng quả Thánh, vẫn không có tướng nam, tướng nữ. Thế mà Bồ Tát Quan Thế Âm lại hiện thân người Nữ ư?

Bồ Tát Quan Thế Âm hiện thân của Đức Từ Bi, muốn nói lên tình Mẹ thương con, Mẹ đối với con là tình thương chân thành, tha thiết nhất không có tình thương nào sánh bằng. Cho nên, Đức Quan Thế Âm hiện thân là một người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sinh.

Để lưu giữ được vẻ đẹp nguyên thủy của Quan âm bồ tát thì ta không thể nào không nói tới hình http://tượng phật quan âm bằng đá. Được phật tử sử dụng rất nhiều vào việc thờ cúng ở đình miếu, đền chùa với ý nghĩa đem lại điều bình an.

Quan Âm Trong Văn Hóa

Quan Thế Âm Bồ Tát từ xa xưa đã xuất hiện dưới nhiều hình dáng để phổ độ chúng sinh, đặc biệt là trong những nạn lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. Phụ nữ không có con cũng thường cầu Mẹ Quan Âm ban phước.

Quan Âm cũng thường được nói đến bên cạnh Phật A-di-đà và trong kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm hai mươi lăm với tên Phổ môn, những công hạnh của Bồ Tát trình bày cụ thể và tán thán. Tại Việt Nam, Quan Âm thường được diễn tả dưới dạng nữ nhân.

Quan Âm Trong Văn Hóa

Quan Thế Âm Bồ Tát từ xa xưa đã xuất hiện dưới nhiều hình dáng để phổ độ chúng sinh, đặc biệt là trong những nạn lửa, nước, quỷ dữ và đao kiếm. Phụ nữ không có con cũng thường cầu Mẹ Quan Âm ban phước.

Quan Âm cũng thường được nói đến bên cạnh Phật A-di-đà và trong kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm hai mươi lăm với tên Phổ môn, những công hạnh của Bồ Tát trình bày cụ thể và tán thán. Tại Việt Nam, Quan Âm thường được diễn tả dưới dạng nữ nhân.

Quan Âm Trong Đền Chùa

Ở từng ngôi chùa, thường thì ở giữa là tượng đức Phật Tổ, tượng Quán Thế Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát nằm 2 bên, nhưng phía ngoài khuôn viên chùa đa phần đều có tượng đức Phật Tổ hay tượng Quan Âm bằng đá mà không thấy hay ít thấy hơn tượng của những vị Phật hay Bồ Tát khác.

Ngoài ra các bạn có thể bấm vào đây để xem thêm: https://tuongdabaophuoc.vn/

CƠ SỞ TƯỢNG ĐÁ MỸ NGHỆ BẢO PHƯỚC

Địa chỉ : ngã 3 Mai Đăng Chơn vs Quãng Nam <bên cạnh làng đá Non Nước>

xem trực tiếp sản phẩm liên hệ Mr.Phước: 0705 072 532

10 CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CỦA PHẬT GIÁO

Đạo đức Phật giáo y cứ vào giới luật. Nếu xem giới luật là những nguyên tắc đạo đức mang tính bền vững, ổn định, không thay đổi, thì yêu cầu từ thực tiễn đời sống đòi hỏi cần có sự bổ sung những chuẩn mực đạo đức mang tính hỗ tương. Những chuẩn mực đạo đức bổ sung đó, theo sự phân định của một số bộ luật Phật giáo, thì đôi khi được xem là giới không quan trọng (khinh giới), có lúc được xem là những phép ứng xử (học pháp) giữa người với người.

Từ thực tiễn đời sống, để đạo đức Phật giáo dễ dàng lan tỏa, thì việc làm sáng tỏ những chuẩn mực đạo đức Phật giáo là yêu cầu bức thiết. Trong vô vàn những chuẩn mực đạo đức Phật giáo được thể hiện rải rác trong các bộ kinh, luật, luận, sớ giải… người viết tạm thời đề xuất 10 chuẩn mực đạo đức của Phật giáo. Đó là: khiêm hạ, tàm quý, trung thực, kiên định, không phóng dật, nhẫn nhục, biết ơn, buông xả, dấn thân và tiết tháo.

https://tuongdabaophuoc.vn/danh-muc-san-pham/tuong-quan-am/

10 chuẩn mực đạo đức của Phật giáo

1. Khiêm hạ

Trước hết, khiêm hạ là một hành xử đạo đức vắng bóng tự ngã, dẹp tan kiêu mạn. Kiêu mạn là một tập khí sâu dày của chúng sanh nói chung. Kinh Tăng chi nêu ra ba thứ kiêu mạn căn bản(1). Theo kinh Tập, khi cái tôi nhỏ lại thì mọi sự va chạm do kiêu mạn ít xảy ra: Ai phá hoại kiêu mạn/ Không còn chút dư tàn/ Như nước mạnh tàn phá/ Cây cỏ lau yếu hèn(2). Và theo Đức Phật, chỉ những ai chinh phục được tự ngã thì mới có thể nhiếp phục lòng kiêu mạn.Câu chuyện khoác lác của chàng thanh niên Saccaka khi dõng dạc tuyên bố: Dầu ta có đối thoại với một cột trụ vô tình, cột trụ ấy khi đối thoại với ta cũng run sợ, cũng hoảng sợ, cũng khiếp sợ, huống nữa là một người thường(3). Sau khi được Phật thuyết giảng, thanh niên Saccaka đã nhận ra sai lầm và biết cách ứng xử khiêm hạ với Đức Phật và chúng Tỳ-kheo. Chuyện tiền thân Đức Phật  số 125 cũng đề cập câu chuyện khoác lác tương tự, nhưng nhân thân là một vì Tỳ-kheo(4).

https://tuongdabaophuoc.vn/danh-muc-san-pham/tuong-thich-ca/

Thứ hai, khiêm hạ là thể hiện sự tôn trọng kẻ dưới và kính nhường người trên. Biết tôn trọng lẫn nhau trong giao tiếp, ứng xử là sự thể hiện đẳng cấp đạo đức. Từ câu chuyện ứng xử tôn trọng lẫn nhau giữa chim đa đa, khỉ và voi(5), Đức Phật đã dạy các thầy Tỳ-kheo: Những người rành rẽ Pháp/ Tôn kính bậc cao niên/ Kiếp này được khen ngợi/ kiếp sau sanh về Trời(6). Trong những hội chúng Sa-môn, Bà-la-môn thời Phật, chỉ có hội chúng đệ tử của Đức Phật là có sự nhường nhịn, tôn trọng lẫn nhau thể hiện ở các hành vi: Kính lễ bậc trưởng thượng/ Không ganh tị một ai(7)Truyền thống đạo đức này sở dĩ có được là do tính khiêm hạ tạo ra.

Thứ ba, khiêm hạ không có nghĩa là hạ thấp mình mà còn có nghĩa tự khẳng định bản thân, là tôn trọng chính mình trong yên lặng tỉnh giác. Trong nghĩa này, khiêm hạ gần với lòng tự trọng. Đó cũng là điều được Đức Phật huấn thị: Hãy học các dòng nước/ Từ khe núi vực sâu/ Nước khe núi chảy ồn/ Biển lớn động im lặng/ Cái gì trống kêu to/ Cái gì đầy yên lặng/ Ngu như ghè vơi nước/ Bậc trí như ao đầy(8).

Có thể thấy, một trong những chuẩn mực ứng xử của người học Phật là thái độ khiêm hạ, định tĩnh, nhu nhuyến, thong dong và vững chãi trước dòng xoáy của bản ngã và sở hữu của bản ngã.

2. Tàm quý

Theo Đại thừa bách pháp minh môn luận giải(9) thì tàm là tự hổ với mình và quý là thẹn với người. Trong nghĩa được sử dụng rộng rãi, thì tàm quý là sự hổ thẹn với chính mình cũng như với người khác. Hổ thẹn là năng lượng đạo đức có tác dụng trong nhiều phương diện.

Trong lãnh vực tu tập, nhờ lòng hổ thẹn thôi thúc, khi nghĩ về công lao giáo hóa của chư Phật, Bồ-tát, của các bậc Thánh tăng, nên nỗ lực tu tập. Trong mười lý do phát tâm Bồ-đề, tất cả đều có liên quan đến lòng hổ thẹn đối với ân đức lớn lao mà ta đã thọ nhận(10). Chính nhờ lòng hổ thẹn này thúc đẩy mà chúng ta nỗ lực tiến tu. Không biết hổ thẹn, khó lòng thăng tiến trong tu tập. Chiêm nghiệm sâu thêm lời dạy của ngài Quy Sơn: Họ cũng là trượng phu, ta đây cũng như vậy, cũng là một dạng thức khuyến tu dựa trên hiệu ứng của lòng hổ thẹn. Do bởi nghĩa này nên kinh điển gọi hổ thẹn là hai pháp trong sáng, trắng sạch (二種白法)(11). Hổ thẹn không những là động năng thăng tiến trong thiện pháp mà cũng có thể áp dụng trong thực tiễn sinh động của con người.

Trong liên hệ đời thường, đạo đức của gia đình, xã hội được hình thành cũng nhờ lòng biết hổ thẹn. Nhờ hai pháp này nên mới có thể chỉ được đây là mẹ hay đây là chị em của mẹ, hay đây là vợ của anh hay em của mẹ…(12)Kinh điển Nikaya cũng gọi hổ thẹn là hai pháp trắng(13) và hai pháp này quyết định phẩm vị, đạo đức của con người, vì nếu không có hai pháp này thì thế giới sẽ đi đến hỗn loạn như giữa các loài dê, loài gà vịt, loài heo, loài chó, loài dã can(14). Nói theo kinh Trung bộ, nếu một người không có tàm quý, thời Ta nói rằng người ấy không có việc ác gì mà không làm(15). Đây cũng là điều được Đức Phật khẳng định trong kinh Phật thuyết như vậy(16).

Như vậy, hổ thẹn là một chuẩn mực đạo đức quan trọng, không những khẳng định nhân cách của con người mà còn góp phần tạo nên động lực thăng tiến ở nhiều phương diện, ở đời thường cũng như ở tâm linh. Hình ảnh một thanh niên thích trang sức, nhưng bị quấn quanh cổ một xác rắn hay xác chó… sẽ làm cho anh ta ngại ngùng, bứt rứt, xấu hổ, là minh họa sinh động về việc vận dụng thường xuyên năng lực hổ thẹn, nhằm chuyển hóa năng lượng dục vọng thấp hèn(17).

Là con người, phải biết hổ thẹn. Không biết hổ thẹn thì chưa phải là con người đúng nghĩa. Chính bởi điều này, chuẩn mực đạo đức hổ thẹn được Đức Phật khẳng định là hai pháp có khả năng che chở cho thế giới(18).

3. Trung thực

Trung thực là một chuẩn mực đạo đức được nhiều người mến mộ, tin yêu. Người trung thực luôn hứa hẹn một tương lai rộng mở. Trung thực biểu hiện qua nhiều dạng thức và quan hệ; mà ở đây, trung thực với chính mình và với tha nhân là hai tính chất chủ yếu.

Trước hết, cần phải trung thực với chính mình. Thiết tưởng điều này không cần phải bàn cãi. Mặc dù vậy, khi khảo sát sâu, mới thấy rõ đôi khi ta chưa trung thực với chính mình. Trung thực với chính mình là ý thức rõ ràng về tất cả các phương diện của bản thân như: khả năng, điều kiện, mặt mạnh cũng như mặt yếu, sở thích cũng như điều không ưa… Ẩn dụ một người đứng trên hồ nước, thì có thể nhận ra các con ốc, con sò, đàn cá bơi lội… với điều kiện hồ nước đó trong và lặng(19). Việc thắp sáng ý thức về những điều kiện của bản thân cũng như thế. Từ sự nhận thức rõ ràng này và thái độ chấp nhận đúng hiện trạng của bản thân, là sự khởi đầu cho thái độ sống trung thực với chính mình. Trung thực với chính mình có ảnh hưởng nhất định đến sự thành công của bản thân.

Thứ hai, trung thực với tha nhân. Đây là tiền đề để xây dựng niềm tin trong mọi mối quan hệ. Khi trung thực thì được người tin tưởng, và lòng tin là yếu tố quyết định sự bền vững cho mọi mối quan hệ giữa người với người. Đó cũng là điều được Đức Phật xác quyết: Ở đời này, lòng tin/ Tối thắng cho con người(20). Mở rộng ý nghĩa này có thể thấy, trong quan hệ thầy trò, vợ chồng, cha con, bạn bè… thì sự tin tưởng lẫn nhau quyết định đến hạnh phúc, bình yên cũng như tính bền vững của các mối quan hệ. Sống mà không tin nhau là hoạt cảnh của địa ngục. Và muốn tin nhau thì phải trung thực, không dối nhau. Ở nghĩa này, không trung thực hay lừa dối nhau là cửa ngõ của tội ác. Chính vì vậy, trong kinh Phật thuyết như vậy, Đức Phật đã khẳng định rất mạnh mẽ: Phàm một người nào đã vi phạm một pháp, Ta nói rằng không có ác nghiệp nào vị ấy không làm được. Thế nào là một pháp? Này các Tỳ-kheo, tức là rõ biết mà nói láo(21).

Trung thực hay không dối nhau là một chuẩn mực đạo đức cơ bản, là chất kết dính của mọi mối quan hệ, là yếu tố thành công trong mọi hoạt động của con người.

4. Kiên định

Kiên định là ý chí, là sự vững vàng trong quyết định, trong dự tính, trong mối quan hệ, trong lý tưởng hay con đường đã chọn. Tùy theo bối cảnh cụ thể mà kiên định được hiểu khác nhau. Chuẩn mực đạo đức kiên định quyết định tính cách, năng lực, giá trị… của con người.

Kiên định là sự nhất quán trong pháp tu. Với Đức Phật, đại thệ nguyện bên cội Bồ-đề trước đêm chứng đạo là sự thể hiện cho sự kiên định vững vàng: Cho dù da thịt, gân xương trở nên khô cằn, máu trong thân này dẫu có cạn kiệt, nhưng nếu không đạt đạo, Ta quyết không rời chỗ này(22). Có thể sự nỗ lực đó là đỉnh điểm của một tiến trình, nhưng qua đó đã cho thấy sự kiên định rất cần trên mọi chặng đường tu tập. Từ thệ nguyện của Đức Phật, liên hệ với con đường mà chúng ta đã và đang chọn hiện nay, có thể nhận ra những bất cập do vì không kiên định. Bởi lẽ, trong những pháp môn mà Đức Phật đã chỉ dạy, mỗi pháp hành có những yêu cầu khác biệt nhau, sự dao động trong pháp môn tu đôi khi phải trả giá bằng thời gian của cả đời người. Hơn thế, sự khác biệt giữa chúng sanh và Bồ-tát liên quan thâm thiết đến chuẩn mực kiên định này. Vì lẽ, trước hiện thực đau khổ, cả hai đều phát nguyện như nhau, tuy nhiên, yếu tố căn bản tạo nên sự khác biệt, chính là sự kiên định của mỗi bên.

Trong cuộc sống đời thường, kiên định rất cần trong mọi mối quan hệ. Trong bối cảnh này, chuẩn mực kiên định có thể được hiểu là tấm lòng trung thành, chung thủy, sắt son với tổ chức, với bạn bè, với người phối ngẫu. Đó cũng là điều được Đức Phật xác quyết trong kinh Tăng chiChính trong thời gian bất hạnh mới biết được sự trung kiên của một người, phải trong một thời gian dài không thể không khác được(23). Đây là một khái quát thấm đẫm trí tuệ của bậc Giác ngộ. Vì lẽ, phẩm chất đạo đức của con người được bộc lộ trong những hoàn cảnh khác nhau. Câu chuyện một dạ thờ chồng của Công chúa Yashodhara được ghi lại trong kinh Tiểu bộ(24) là hình ảnh tuyệt mỹ về đạo lý chung thủy, sắt son của người phụ nữ theo chuẩn mực đạo đức Phật giáo.

Dù trên bước đường tu hay trong thực tiễn đời sống, chuẩn mực đạo đức kiên định luôn được ca ngợi và vinh danh. Kiên định là dấu son trong phẩm hạnh cần có của một con người.

5. Không phóng dật

Trong những lời dặn dò thống thiết của Đức Phật trước khi Niết-bàn, thì không phóng dật là huấn thị thấm đẫm yêu thương(25). Không phóng dật là không buông lung, không chạy theo dục vọng, siêng năng tu tập các pháp lành. Đây là chuẩn mực đạo đức quan trọng, được đề cập trong nhiều bản kinh.

Theo kinh Tăng chi, không phóng dật là một pháp được tu tập, được làm cho sung mãn, bao trùm và an trú hai lợi ích: lợi ích hiện tại và lợi ích trong tương lai(26). Chỉ một pháp nhưng tác dụng không chỉ một đời, đủ thấy sự diệu dụng của pháp ấy to lớn đến mức nào. Kinh Tăng chi vừa dẫn còn sử dụng nhiều hình ảnh ấn tượng để biểu thị cho hạnh không phóng dật: như dấu chân voi, có thể dung nhiếp các dấu chân, như một ngôi nhà nóc nhọn thì mọi rui, kèo đều hướng về, như ngắt một chùm xoài thì các trái xoài đều nằm gọn trong tay, như vua Chuyển luân thì nắm quyền các vương quốc phụ thuộc, như ánh sáng của mặt trăng thì hơn hẳn những vì sao… Không những thế, các bản kinh quan trọng như kinh Pháp cú(27), kinh Tương ưng(28), kinh Tập(29)… đều ca ngợi phẩm chất đạo đức không phóng dật.

Trên phương diện tu tập, không phóng dật là yếu tố quyết định sự thành công của mọi pháp hành. Vì lẽ, thu thúc lục căn, không chạy theo ngũ dục là nghĩa thứ nhất của không phóng dật. Hình ảnh con dã can gầy gò chực chờ con rùa cử động được ghi lại trong kinh Tương ưng(30) là ẩn dụ sinh động về việc thu thúc các căn. Bởi lẽ, chỉ cần con rùa thò bất cứ một thân, phần nào ra, thì dã can sẽ tóm lấy. Do vậy, không phóng dật còn mang nghĩa tồn vong không những trong tu tập mà liên quan đến mọi dạng thức sinh tồn. Ở phương diện thứ hai, không phóng dật đồng nghĩa với tinh tấn, là siêng năng. Cần phải thấy, nhận thức được việc lành là điều quan trọng tuy nhiên đưa nhận thức vào thực tiễn đời sống là do bởi siêng năng. Siêng năng tạo nên sự thăng hoa, thành công trong mọi lãnh vực và là quán hạnh dung thông giữa pháp thế gian và pháp xuất thế.

Nếu coi quá trình tu tập và mọi sự thành công trong cuộc đời là những cỗ xe, thì không phóng dật là động lực cơ bản, không những giữ gìn cỗ xe đó không nghiêng, đổ, mà còn đưa cỗ xe tiến về phía trước.

6. Nhẫn nhục

Nhẫn nhục là sự chịu đựng, chấp nhận những khổ đau, bức bách, hủy nhục, khó chịu… do các điều kiện bên ngoài đem đến, nhưng tâm tư vẫn an tịnh. Đây là một phẩm chất đạo đức được thể hiện trong nhiều cấp độ. Trong kinh Trung bộ, hình ảnh kẻ đạo tặc dùng cưa, cưa tay chân nhưng hành giả vẫn không khởi sân tâm hay phẫn, não(31), là sự thể hiện của một phẩm chất nhẫn nhục cao tột. Phật giáo Đại thừa xem nhẫn nhục là một trong sáu hạnh quan trọng của con đường Bồ-tát.

Trước hết, trước những thách thức của điều kiện tự nhiên cũng như những tác động của con người, muốn tồn tại, cần phải biết an hòa và nhẫn nhịn. Tức là tạm an với điều kiện sống tự nhiên và nhẫn nhịn trong sự va đập, tương tác với môi trường xã hội. Nhẫn để mà sống chính là nghĩa này. Kinh Tăng chi còn gọi đó là kham nhẫn: có hạng người không nhiếc mắng lại kẻ đã nhiếc mắng, không sân hận lại kẻ đã sân hận, không gây lộn lại với kẻ đã gây lộn. Này các Tỳ-kheo, đây gọi là đạo hành kham nhẫn(32).

Thứ hai, trong cuộc sống đời thường, đôi khi nhằm chuyển hóa người, thì nhẫn nhục cần thể hiện trong giới hạn nhất định. Câu chuyện quỷ dạ xoa Alavaka được ghi lại trong kinh Tập(33) là một ví dụ điển hình. Chuyện kể rằng, một độ nọ, Đức Phật đang ở tại trú xứ của dạ xoa Alavaka. Dạ xoa Alavaka yêu cầu Đức Phật đi ra, Đức Phật hoan hỷ đi ra; dạ xoa lại yêu cầu Đức Phật đi vào, Ngài vẫn chấp nhận thực hiện. Đến lần thứ tư, Đức Phật không thực hiện theo yêu cầu của dạ xoa, kiên quyết bảo: Này Hiền giả, Ta sẽ không đi ra. Ông cần gì thì hãy làm đi?(34). Ba lần đi ra, đi vào theo yêu cầu tinh quái của quỷ dạ xoa, đủ thấy Đức Phật đã ứng xử nhẫn nhịn nhuần nhuyễn đến mức nào.

Thứ ba, nhẫn nhục là sức mạnh. Sức mạnh đây chính là sức mạnh làm chủ bản thân mình. Vì một khi thực hiện được hạnh nhẫn nhục, chứng tỏ một năng lực tu tập hùng mạnh. Nhờ năng lực đó, mới có thể kiểm soát tâm mình. Vì chiến thắng bản thân mình là chiến công oanh liệt nhất(35). Con đường thực tập để có sức mạnh này bắt đầu bằng sự mở rộng tâm, trải tâm như đất như Đức Phật đã dạy Rahula trong kinh Trung bộ(36).

Nhẫn nhục là nhịn được những điều khó nhịn mà tâm vẫn an ổn, tuy là chuẩn mực đạo đức, nhưng mang ý nghĩa như một kỹ năng sống hướng thượng, thanh cao.

7. Biết ơn

Biết ơn được hiểu ở đây bao hàm cả việc báo ơn. Theo kinh Tăng chi, người biết ơn là một trong hai hạng người khó tìm được ở đời(37). Trong liên hệ duyên khởi, để hình thành con người, thì phải thọ nhận nhiều công ơn. Trong vô vàn những công ơn, theo kinh Đại thừa bổn sinh tâm địa quán, phẩm Báo ân(38), thì có bốn ơn cơ bản: ơn cha mẹ, ơn những người liên hệ quanh ta, ơn quốc gia và ơn Tam bảo.

Sự hiện sinh của một con người là do cha mẹ. Từ việc kế thừa nền tảng vật chất, cho đến nuôi dưỡng, kiện toàn tri thức, dựng vợ gả chồng, trao của thừa tự và hướng con về đường lành. Thực sự, khó có thể kể hết cũng như báo đáp công lao của cha mẹ. Nói như kinh Tăng chi: nếu một bên vai cõng mẹ, một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi… cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha(39).

Kế đến, với một người bình thường, sở dĩ vững vàng về kiến thức, vững chãi trong địa vị, thuận lợi trong nhịp mưu sinh, an tâm và an toàn trong đời sống… là do sự hỗ trợ của nhiều người: từ thầy tổ, thân hữu, láng giềng, dòng họ… Nhận thức rõ về các công ơn đã thọ nhận, là thái độ sống đúng mực của một người trưởng thành.

Thứ ba, được sống và sống ổn định, an toàn là phước báo của con người. Vì một khi môi trường sống được đảm bảo, thì hạnh phúc mới vững bền và có thể an tâm hoàn thành sở nguyện. Sự đảm bảo về môi trường sống là do sự quan tâm, nỗ lực và hy sinh của giới chức lãnh đạo quốc gia. Nhận thức đúng về điều này để hành xử cho hợp lẽ, là tâm thế đúng mực.

Cuối cùng, sở dĩ hiểu được bản thân, nhận ra con đường hạnh phúc, có được phương tiện phù hợp với điều kiện nghiệp lực của mình, là do diệu hạnh của Tam bảo. Nếu như cha mẹ, bạn bè, thầy tổ, quốc gia có thể giúp ta vơi khổ và hạnh phúc trong một đời, thì Tam bảo có thể giúp ta vĩnh viễn thoát khổ và an lành trong nhiều kiếp. Và do vậy, người đệ tử Phật phải nhớ ơn và nỗ lực báo đáp thâm ân Tam bảo.

Biết ơn là chất liệu dệt nên phẩm hạnh của một con người. Nhận thức đúng và đầy đủ về các ơn cũng như nỗ lực báo đáp bằng những gì có thể, là chuẩn mực đạo đức tối cần của một người học Phật.

8. Buông xả

Buông xả là nghệ thuật ứng xử trong các mối quan hệ, là sự buông bỏ những ý nghĩ mừng vui, lo khổ đồng thời nỗ lực từ bỏ các tật xấu tích lũy từ nhiều đời.

Trước hết, lo nghĩ thường gắn với phiền muộn, nhất là lo nghĩ vẩn vơ, không liên hệ đến thiện pháp. Buông bỏ mọi điều lo nghĩ, sống với thực tại hiện tiền thì hạnh phúc gõ cửa. Điều này được Đức Phật chỉ dạy trong kinh: Quá khứ không truy tìm/ Tương lai không ước vọng/ Quá khứ đã đoạn tận/ Tương lai lại chưa đến/ Chỉ có pháp hiện tại/ Tuệ quán chính ở đây(40).

Trong thực tế đời sống, đôi khi cũng khó tránh khỏi việc lo nghĩ về những điều do cuộc sống đặt ra. Tuy nhiên, học cách buông bỏ những điều nhỏ nhặt, thì đôi khi gặt hái những kết quả lớn lao. Biết buông bỏ, biết hy sinh là tiền đề dẫn đến mọi sự thành tựu. Câu chuyện chú khỉ trong kinh Tiểu bộ(41), vì hốt hoảng lo tìm hạt đậu bị đánh rơi, nên đã buông tay đánh rơi cả nắm đậu, là ẩn dụ sinh động về trường hợp này.

Không những thế, biết cách buông bỏ những ký ức liên hệ đến khổ đau là một liệu pháp điều phục tâm tích cực. Vì có những chuyện u hoài xảy ra trong quá khứ xa xưa, nhưng tâm tư cứ giữ chặt, và nỗi đau đôi khi tái hiện về, làm cho người quằn quại, tái tê. Buông xả những chuyện không hay là một trong những cách thức giữ gìn nhựa sống cho chính mình.

Hạnh buông xả còn là một dạng thức biểu hiện cho tâm thương yêu. Vì lẽ, nhờ buông xả nên dễ dàng tha thứ lỗi lầm của người, tạo cho kẻ có lỗi một cơ may để phục thiện. Buông xả còn giúp người ta trở nên rộng rãi, không ích kỷ, nhỏ nhen: Các sở hành của mình/ Không nhỏ nhen vụn vặt(42)Nhờ hạnh buông xả, nên tâm bố thí được khởi sinh. Nói theo kinh điển, nhờ buông xả, tâm thoát khỏi cấu uế của xan tham, bố thí dễ dàng, bàn tay rộng mở(43).Ngoài ra, buông xả còn là an trú tâm với những gì hiện có. Biết cách buông bỏ những đòi hỏi không hợp lý, là một trong những cách thức để đem đến sự an ổn đời thường.

Muốn có được một cuộc sống đúng nghĩa và trọn vẹn thì phải học cách buông bỏ, xả ly. Buông xả không những giúp thanh lọc tâm, mà còn là phương thức vươn lên bằng cách từ bỏ những hiểu biết bất toàn, khiếm khuyết.

9. Dấn thân

Dấn thân là sự phát tâm vì lợi ích của tha nhân, trong một số trường hợp phải chấp nhận sự hy sinh, mất mát. Dấn thân là hành động mang tâm nguyện Bồ-tát, vì đó là sự phát tâm đem lại lợi ích cho nhiều người.

Dấn thân là phát tâm Bồ-đề, được dẫn khởi từ sự lập nguyện, phát tâm. Vì nguyện lập thì có thể độ chúng sanh, tâm phát thì Phật đạo có thể thành(44). Ở nghĩa này, Đức Phật là minh chứng cao cả cho sự lập nguyện, dấn thân: Ta mang cỏ munja/ Vững thay, đây đời sống/ Thà Ta chết chiến trận/ Tốt hơn, sống thất bại(45). Công cuộc tự chuyển hóa mình cũng đồng thời là một quá trình nỗ lực, dấn thân.

Dấn thân là hành động mang tâm nguyện Bồ-tát. Vì cuộc đời vốn dĩ đầy bất hạnh và lắm khổ đau, người mang tâm nguyện Bồ-tát luôn nỗ lực bằng những gì có thể, nhằm làm vơi khổ cho đời. Dấn thân không đồng nghĩa với sự liều mạng, quên thân. Dấn thân theo chuẩn mực Phật dạy phải dựa trên cơ sở của sức mạnh, tình thương và trí tuệ. Chỉ có như vậy thì sự dấn thân mới tròn đầy ý nghĩa, và giảm đi những tổn thất không đáng có trong khi thực thi hạnh nguyện giúp đời.

Đạo Phật mang nghĩa vị tha, và dấn thân là một biểu hiện tạm quên đi bản ngã. Dấn thân là sự tận hiến cho đời mà không nghĩ về tư lợi. Trong nhiều cách thức nhiếp hóa mọi người được đề cập trong kinh Duy Ma Cật(46), thì việc làm lợi lạc cho tha nhân (Lợi hành nhiếp) có ý nghĩa ưu thắng. Hình ảnh một cây hương tự đốt cháy mình có thể hiểu ở nhiều nghĩa, nhưng việc dâng tặng cho đời sự thơm thảo, là sự thực được ghi nhận từ cây hương. Qua những nét sơ phác về cuộc đời Đức Phật, từ nhiều kiếp sống trong 547 chuyện tiền thân, cho đến bốn mươi lăm năm thuyết giảng sau khi Thành đạo, là một thiên trường ca bất tận về hạnh nguyện dấn thân: vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người(47).

Một khi sở dục đang lên ngôi, cái ác đang chờ chực, ngấp nghé, thì cuộc đời cần lắm sự lập nguyện, dấn thân. Dấn thân biểu lộ của dũng khí, lưu xuất từ cơ sở tâm thương yêu và thể hiện bằng con mắt tuệ. Chỉ có như vậy hạnh dấn thân mới đem đến hạnh phúc, an lạc cho nhiều người.

10. Tiết tháo

Tiết tháo là khí tiết, là danh dự và phẩm vị của con người. Sống đúng với chuẩn mực đạo đức cơ bản của một con người, theo những nguyên tắc đạo đức làm nền tảng nào đó, được gọi là tiết tháo.

Phẩm chất của một con người gồm một cái tên để phân biệt, cộng với những phẩm hạnh đạo đức tương ưng. Giữ gìn phẩm hạnh đạo đức riêng có đồng nghĩa với việc giữ gìn tiết tháo. Một khi phải sống trong sự tương giao, đối đãi, khi chuyện nhục vinh, danh lợi vẫn có khả năng chi phối con người, thì việc giữ gìn tiết tháo là vấn đề mang nhiều ý nghĩa nhân bản, nhân văn. Trong hệ quy chiếu tương đối của đạo đức thế gian, thì tiết tháo vẫn đóng một vai trò quan trọng. Không nên lẫn lộn giữa các hệ quy chiếu khác nhau để xét đoán vấn đề.

Trong kinh Tiểu bộ, câu chuyện con sư tử bị làm nhục chứa đựng nhiều giá trị tham khảo(48). Chuyện kể rằng, có một con sư tử cái sống gần hang của chó rừng. Một ngày nọ, hội đủ nhân duyên, chó rừng ngỏ lời cầu hôn sư tử. Buồn bực và uất ức vì lời cầu hôn vô lễ, sư tử cái định lấy cái chết để rửa nỗi nhục kia. May mắn được gặp được sư tử em, là tiền thân Đức Phật, đã tận tình giải bày, nên sư tử chị đã vượt qua tình trạng khó xử đó. Có thể, câu chuyện chỉ là liên hệ gợi mở, nhưng qua đó cho thấy sự quý trọng tiết tháo đôi khi còn quan trọng hơn cả sinh mạng của chính mình.

Mỗi con người, mỗi chúng sanh sở hữu những phẩm vị tương ứng. Vì danh phải tương xứng người(49). Từ kẻ thứ dân cho đến nam nữ, Sa-môn, Bà-la-môn đều có những phẩm vị đạo đức cơ bản. Sống đúng theo những chuẩn mực này được gọi là sống có tiết tháo. Kinh Tương ưng đã đưa ra một khái quát đầy giá trị về tiết tháo: Giữa các loài hai chân/ Chánh giác là tối thắng/ Giữa các loài bốn chân/ Thuần chủng là tối thắng/ Trong các hàng thê thiếp/ Nhu thuận là tối thắng/ Trong các hàng con trai/ Trung thành là tối thắng(50). Có thể cần bổ chính thêm vài điều trong những phẩm vị vừa dẫn, nhưng ít ra qua đó đã cho thấy rằng, tiết tháo là điều rất mực quan trọng trong việc định hình nên phẩm chất của con người.

Tạm kết

Đạo đức là chất liệu tạo nên những hệ giá trị riêng có của con người và xã hội loài người. Đạo đức Phật giáo ngoài những nguyên tắc siêu thế, thanh cao, còn bao hàm những chuẩn mực thiết thực, không khô cứng, có thể kiểm nghiệm hiệu năng ngay bây giờ và tại đây. Mười chuẩn mực đạo đức vừa nêu tuy chưa phải là tất cả, nhưng nếu như được thực thi, thì nhất định quả ngọt sẽ đong đầy.

TÁC GIẢ : BẢO PHƯỚC

TƯỢNG ĐÁ BẢO PHƯỚC

Cơ sở điêu khắc đá  BẢO PHƯỚC với hy vọng giới thiệu đến mọi người những nét đẹp tinh túy về nghề thủ công mỹ nghệ của làng đá non nước Việt Nam. Hiện tại ngoài những mẫu tượng truyền thống như : http://tượng phật quan âm , ,http://tượng phật thích cahttp://tượng phật di lặchttp://tượng quan âm hóa rồng ,http://tượng kỳ lân , tượng địa tạng,tam tạng ,cấc loại tượng về thú ,v.v.v.

Continue reading “TƯỢNG ĐÁ BẢO PHƯỚC”

Sự Tích Quan Thế Âm Bồ Tát|BẢO PHƯỚC

Theo kinh truyện viết lại, ngài hóa thân với 33 thân tướng. Ngày nay người đời còn truyền tụng hai kiếp giáng trần ứng với hai sự tích quan thế âm bồ tát đó là kiếp thứ 10 khi bồ tát quan thế âm là thị kính và kiếp cuối cùng làm bà diệu thiện

 

Sự Tích Quan Thế Âm Bồ Tát

Theo kinh truyện viết lại ,ngài hóa thân với 33 thân tướng .Ngày nay người đời còn truyền tụng lại hai kiếp giáng trần ứng với hai sự tích quan thế âm bồ tát đó là kiếp thứ 10 khi bồ tát quan âm là thị kính và kiếp cuối là bà diệu thiện.

Phẩm hạnh của bồ tát quan thế âm

Quan thế âm là vị bồ tát có đầy đủ phẩm chất của một người mẹ trong tất cả những người mẹ.Hình như trong mọi trái tim của những người con phật thuần thành ,nhất là giới phật tử bình dân .Mổi khi nói về bà ,chúng ta  ai cũng biết ,nhưng chẳng ai hiểu đầy đủ tất cả về bà.

Bà là vị bồ tát đã chứng được nhĩ căn viễn thông ,giác ngộ chân lý nên nghe được tất cả âm thanh,tiếng cầu cưu của muôn loài trong lúc lâm nguy.

Trong kinh pháp hoa phẩm phổ môn,quan âm bồ tát phát ra mười hai đại nguyện ,nguyện nào cũng vì lợi ích cho chúng sanh.Ngài ứng hiện 32 thân, để cứu độ giáo hóa chúng sanh, từ cõi Ta bà đến khi chúng sanh mãn duyên cõi trần, bà và ngài Đại Thế Chí trợ lực đức phật A Di Đà ,tiếp rước vong linh sinh về tây phuong cực lạc.Với từ lực vô biên,từ tâm rộng lớn của bồ tát quan thế âm,hể nge chúng sanh kêu cứu là bà hiển thị đến cưu ngay.Chúng ta cũng vậy ,có thanh tâm nguyện cầu thì mới có cảm ứng.

Chúng ta là đệ tử của phật,vậy mổi người nên học theo lòng từ bi ,hạnh nhẫn nhục của mẹ quan thế âm bồ tát để mang lợi ích cho chính mình và cả chúng sanh.

Đức phật quan thế âm bồ tát ,bà là hiện thân của những đúc tính tốt đẹp của những người mẹ hoàn hảo nhất trong vũ trụ .Bà còn là vị bồ tát hiện thân cho lòng từ bi vĩ đại của tất cả chư phật, đó là vị thánh nhân có thể hiểu ,nghe thấy tất cả tiếng kêu đau khổ của chúng sanh để cứu độ và giáo hóa đưa chúng sanh đến nơi an vui giải thoát, nên nhân loại tôn kính gọi bà là quan thế âm bồ tát cứu khổ cứu nạn .Bà là một trong những đại bồ tát được tôn kính không chỉ trong phật giáo, mà còn được các tôn giáo khác trên thế giới tin và thờ phụng.

Theo kinh phật giáo tiếng phạn bồ tát ý nghĩa là hữu tình đã giác ngộ,trở lại giác ngộ hữu tình khác ,như có nhiều người đang ngủ mê, có một người tỉnh thức ,người ấy đánh thức những người còn lại,kẻ ngủ mê là chúng sinh,còn ngài quan thế âm bồ tát chính là người đánh thức .Quan là quan sát ,tìm hỉu và biết rỏ ràng về đối tượng.Thế là cuộc đời ,cuộc sống dân gian .Âm là tiếng cầu cứu ,tiếng thỉnh cầu của chúng sinh đau khổ.Vì ngài đã giác ngộ biết rỏ chân lý của vũ trụ ,chứng được phép nhĩ can viên thông ,như ngài đã thúc dậy trong ngôi nhà vũ trụ kia nge biết hết thẩy chân tướng các sự vật,động tỉnh trong ngoài .Không chỉ mang đầy đủ những phẩm chất và khả năng siêu phàm như các vị bồ tát, đúc quan thế âm bồ tát ẩn tàng trong một triết lý sâu xa và phương thức tu tập nhiệm màu nhờ quán chiếu mà được tự tại,giải thoát .Ngài đạt được diệu quả nhĩ căn viên thông nên có thể nge và cảm nhận được tiếng kêu đau khổ khắp cõ thế gian,ngài hiện ngay nơi đó để cứu độ chúng sanh vượt thoat hiểm nguy.

Qua bài viết ,tác giả cũng như những người con phật khác muốn thể hiện tấm lòng thành kính và sự tri ân sâu sắc dâng lên đúc phật quan thế âm bồ tát .Mỗi khi chúng ta lắng lòng nhất niệm hình ảnh của ngài thì tự nhiên trong lòng ta trổi dậy tình cảm thiêng liêng vô cùng tận. Đức phật bà quan thế âm bồ tát đã trở thành biểu tượng linh thiêng,dung dị nhưng rất đổi quen thuộc đối với mỗi con người chúng ta. Học theo đức quan thế âm bồ tát chúng ta phải học tập và rèn luyện lòng quãng đại ,tính kiên nhẫn và lòng từ bi, cái nhìn sâu sắc vào thực tế để biết cách đạt được mục tiêu đó.Biết sống vi người khác và chính mình.

Tát giả : Bảo Phước

 

url Hotline: 0705 072 532
Gọi ngay
Bảo Phước
Facebook Chat
url Zalo Chat
Zalo Chat